cộng đồng teen 9x
chào mừng các bạn đến với protn.9forum.net

Join the forum, it's quick and easy

cộng đồng teen 9x
chào mừng các bạn đến với protn.9forum.net
cộng đồng teen 9x
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Go down

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA Empty ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Bài gửi by I_l0ve_you_4ever 16/11/2011, 21:53

CHIA SẺ VỚI MỌI NGƯỜI BÀI VĂN ĐK ĐIỂM 10 TKI ĐẠI HỌC NĂM NAY.TÁC GIẢ CỦA BÀI VĂN NÀY CÓ TÊN GIỐNG TỚ.HAHA Very Happy NHƯNG TIẾC LÀ TỚ K GIỎI ĐK NHƯ THẾ Crying or Very sad Crying or Very sad Crying or Very sad



Đại học Huế vừa công bố điểm tuyển sinh, có một bài văn đạt điểm tuyệt đối, đã qua tay của gần 50 giáo viên chấm thi đọc và đều đồng thuận đã làm "chấn động" dư luận theo hướng tích cực. Được sự giúp đỡ của Bộ GD-ĐT và Trường Đại học Huế, Thanh Niên xin giới thiệu toàn bộ bài văn đạt điểm 10 của thí sinh Nguyễn Thị Thu Trang (sinh năm 1987), học sinh chuyên của Trường Quốc học Huế, thi vào khối D, ngành Tài chính ngân hàng của Trường Đại học Kinh tế Huế.
Đề chính thức môn: Văn, khối D
Câu I (2 điểm): Anh/chị hãy trình bày những nét chính trong sự nghiệp thơ văn của Xuân Diệu.
Câu II (5 điểm): Phân tích vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt (Kim Lân).
Câu III (3 điểm): Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Kính gửi cụ Nguyễn Du của Tố Hữu:
Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người !
(Văn học 12, tập một, NXB Giáo dục, tái bản 2004, tr.160)
Bài làm:

Câu 1:
Xuân Diệu (1916 - 1985) - một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, đã để lại cho đời một sự nghiệp sáng tác thật lớn lao và rất có giá trị. Hơn năm mươi năm lao động miệt mài trong thế giới nghệ thuật ấy, con người và thơ văn của Xuân Diệu đã có sự chuyển biến rõ nét từ một nhà thơ lãng mạn thành nhà thơ cách mạng. Đó là bước chuyển tất yếu của một trí thức yêu nước, một tài năng nghệ sĩ. Thơ văn Xuân Diệu có đóng góp lớn vào quá trình phát triển của văn học Việt Nam. Có thể tìm hiểu sự nghiệp văn học của nhà thơ qua thơ và văn xuôi:

Về lĩnh vực thơ ca, chúng ta có thể tìm hiểu qua hai giai đoạn chính trước và sau Cách mạng Tháng Tám.

Trước Cách mạng Tháng Tám, Xuân Diệu là một nhà thơ lãng mạn. Các tác phẩm chính tập thơ Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Nội dung của thơ Xuân Diệu trong thời kỳ này là:

Niềm say mê ngoại giới, khát khao giao cảm trực tiếp, cháy bỏng, mãnh liệt với cuộc đời (Vội vàng, Giục giã).

Nỗi cô đơn rợn ngợp của cái Tôi bé nhỏ giữa dòng thời gian vô biên, giữa không gian vô tận (Lời kỹ nữ).

Nỗi ám ảnh về thời gian khiến nhà thơ nảy sinh một triết lý về nhân sinh: lẽ sống vội vàng (Vội vàng).

Nỗi khát khao đến cháy bỏng được đắm mình trọn vẹn giữa cuộc đời đầy những hương sắc và thể hiện nỗi đau đớn, xót xa trước khát vọng bị lãng quên thật phũ phàng trước cuộc đời (Dại khờ, Nước đổ lá khoai).

Sau cách mạng, thơ Xuân Diệu đã vươn tới chân trời nghệ thuật mới, nhà thơ đã đi từ "cái tôi bé nhỏ đến cái ta chung của mọi người" (P.Eluya). Xuân Diệu giờ đây đã trở thành một nhà thơ cách mạng say mê, hăng say hoạt động và ông đã có thơ hay ngay trong giai đoạn đầu. Xuân Diệu chào mừng cách mạng với Ngọn quốc kì (1945) và Hội nghị non sông (1946) với tấm lòng tràn đầy hân hoan trước lẽ sống lớn, niềm vui lớn của cách mạng.

Cùng với sự đổi mới của đất nước, Xuân Diệu có nhiều biến chuyển trong tâm hồn và thơ ca. Ý thức của cái Tôi công dân, của một nghệ sĩ, một trí thức yêu nước trước thực tế cuộc sống. Đất nước đã đem đến cho ông những nguồn mạch mới trong cảm hứng sáng tác. Nhà thơ hăng say viết về Đảng, về Bác Hồ, về Tổ quốc Việt Nam, về quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc và công cuộc thống nhất nước nhà. Các tác phẩm tiêu biểu: tập Riêng chung (1960), Hai đợt sóng (1967), tập Hồn tôi đôi cánh (1976).

Từ những năm sáu mươi trở đi, Xuân Diệu tiếp tục viết thơ tình. Thơ tình Xuân Diệu lúc này không vơi cạn mà lại có những nguồn mạch, cảm hứng mới. Trước cách mạng, tình yêu trong thơ ông hầu hết là những cuộc tình xa cách, cô đơn, chia ly, tan vỡ... nhưng sau cách mạng, tình yêu của hai con người ấy không còn là hai vũ trụ bé nhỏ nữa mà đã có sự hòa điệu cùng mọi người. Tình cảm lứa đôi đã hòa quyện cùng tình yêu Tổ quốc. Xuân Diệu đã nhắc nhiều đến tình cảm thủy chung gắn bó, hạnh phúc, sum vầy chứ không lẻ loi đơn côi nữa (Dấu nằm, Biển, Giọng nói, Đứng chờ em).

Về lĩnh vực văn xuôi có thể nói Xuân Diệu quả thật tài tình. Bên cạnh tố chất thơ ca bẩm sinh như thế, Xuân Diệu còn rất thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Các tác phẩm chính Trường ca (1939) và Phấn thông vàng (1945). Các tác phẩm này Xuân Diệu viết theo bút pháp lãng mạn nhưng đôi khi ngòi bút lại hướng sang chủ nghĩa hiện thực (Cái hỏa lò, Tỏa nhị Kiều).

Ngoài ra Xuân Diệu còn rất tài tình trong việc phê bình văn học, dịch thuật thơ nước ngoài. Các tác phẩm tiêu biểu Ký sự thăm nước Hung, Triều lên, Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Dao có mài mới sắc...

Dù ở phương diện nào, Xuân Diệu cũng có đóng góp rất to lớn với sự nghiệp văn học Việt Nam. Vũ Ngọc Phan từng nhận xét "Xuân Diệu là người đem nhiều cái mới nhất cho thơ ca hiện đại Việt Nam". Sự đóng góp của Xuân Diệu diễn ra đều đặn và trọn vẹn trong các thể loại và các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Chính vì thế có thể nói rằng Xuân Diệu xứng đáng là một nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn.

Câu 2:
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với "thuần hậu phong thủy" ấy. Ngay sau cách mạng, ông đã bắt tay vào viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư. Khi hòa bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Trong một lần phát biểu, Kim Lân từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hy vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Và điểm sáng mà nhà văn muốn đem vào tác phẩm chính là ở chỗ đó. Đó chính là tình người và niềm hy vọng về cuộc sống, về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết. Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống "nhặt vợ" tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kỹ lưỡng ấy, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt ta một không gian năm đói thật thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ, giữa tiếng hờ khóc và tiếng gào thét kinh hoàng của đám quạ. Bằng tấm lòng đôn hậu chân thành nhà văn đã gửi gắm vào trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc Nhật ở cuối thiên truyện.

Có thể nói rằng, Kim Lân đã thật xuất sắc khi dựng lên tình huống Nhặt vợ của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại như ở nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Chúng ta từng kinh hãi trước "xác người chết đói ngập đầy đường", "người lớn xanh xám như những bóng ma", trước "không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi ngây của xác người", từng ớn lạnh trước "tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết" ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và cả người vợ của Tràng nữa. Một anh thanh niên của cái xóm cư ngụ ấy như Tràng, một con người - một thân xác vạm vỡ, lực lưỡng mà dường như ngờ nghệch, thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp. "Cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào", vậy mà Tràng vẫn đèo bồng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thực liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật có lý và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy, trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa đựng một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy cũng hé mở cho ta thấy: tình cảm của một con người, biết yêu thương, biết cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ. Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã "sờ sợ", "ngờ ngợ", "ngỡ ngàng" như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia trình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tính. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cộc cằn, Tràng đã sớm trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận Hạnh phúc của gia đình. Hạnh phúc ấy như một cái gì đó cứ "ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ sống lưng". Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến "Trong một lúc Tràng dường như quên đi tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày đã qua". Và Tràng đã ước ao hạnh phúc. Mạch sống của một người đàn ông trong Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi thật bất ngờ nhưng rất hợp lôgich. Những thay đổi ấy không gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao? Trong con người của Tràng khi trở dậy sau đó khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc, "Hắn thấy hắn yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng", "Hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này". Hắn cũng xăm xăm ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động, cử chỉ ấy ở Tràng đâu chỉ câu chuyện bình thường mà đó là sự biến chuyển lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hòa thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ đổi thay khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phất phới. Rồi số phận, cuộc đời của hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước, trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên, từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì đã làm thị biến đổi như thế. Đó chính là tình người, là tình thương yêu, thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến kia bóp nghẹt đời sống con người, thị xuất hiện không tên tuổi, quê quán, trong tư thế "vân vê tà áo dài đã rách bợt", điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, nguồn sinh khí ấy chỉ có được khi trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống, vào tương lai, thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị Tràng vẫn chỉ là anh Tràng của ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng trầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật ấy để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp, tình người, niềm tin ở cuộc đời phía trước trong những con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khó nói về ước vọng ở tương lai, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét độc đáo vô cùng tình cảm, ước vọng ở cuộc đời ấy lại được tập trung miêu tả khá kỹ ở nhân vật bà cụ Tứ. Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ ngòi bút vững vàng, già dặn của mình trong bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật, có cá tính của mình thường đặt nhân vật vào một tình thế thật căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay chính trong nội tâm của nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình. Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên và cụ đã "cúi đầu nín lặng". Cử chỉ hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hòa lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang "vân vê tà áo đã rách bợt" mà "lòng đầy thương xót". Bà thiết nghĩ "Người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có được vợ". Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng:

"Thôi, chúng mày phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng".

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là vật cản lớn nữa. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đã giang tay đón nhận đứa con dâu, lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại ấy bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi việc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại ấy. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình. Đặc biệt, chi tiết nồi chè cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người, nồi chè cám nghẹn ứ cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão "lễ mễ" bưng nồi chè và vui vẻ giới thiệu "Chè khoán đây - ngon đáo để cơ". Ở đây nụ cười đã xen lẫn nước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cuối thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn ở những con người bình thường và đáng quý ấy.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở những thân phận nghèo đói, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điểm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài không mới. Tác phẩm đã thể hiện thành công nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân - một nhà văn được đánh giá là viết ít, nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

“Cái đẹp cứu vớt con người” C.Đôtôiepki). Vâng, Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kỳ diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm, ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là ở điểm sáng tuyệt vời ấy.

Câu 3:
Tố Hữu, một nhà thơ chiến sĩ, một người thư ký trung thành của thời đại ấy đã cùng hành trình làm cách mạng tiếp cận với thơ ca. Thơ ca đối với ông không ngoài mục đích chính trị, phục vụ lý tưởng của Đảng, của cách mạng. Trong nguồn mạch về các đề tài chính trị của đất nước ấy, Tố Hữu đã tìm về quá khứ lịch sử của cha ông, một thế hệ hôm nay vọng về thế hệ cha ông xưa để đồng cảm, thấu hiểu, để tìm nguồn sinh lực mới cất bước cho cuộc kháng chiến hôm nay. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho đề tài này không thể không kể đến bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du trích trong tập Ra trận.

Tháng 11/1965 khi giặc Mỹ bắn phá ác liệt, nhà thơ có dịp đi qua quê hương của Nguyễn Du và nhân kỷ niệm đúng hai trăm năm ngày sinh của Người, Tố Hữu xúc động viết bài thơ này. Bài thơ đã thể hiện một cách cảm nhận, suy nghĩ và đánh giá của Tố Hữu - tiêu biểu cho thế hệ hôm nay nhìn về quá khứ, lịch sử của cha ông xưa để từ đó khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ hôm nay của dân tộc.
Trong tiếng vọng của tấc lòng tri âm tri kỷ ấy, Tố Hữu đã thốt lên:

"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thiêng như tiếng mẹ ru những ngày
Hỡi Người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!".

Bài thơ trừ bốn câu thơ đầu và cuối, tất cả có năm khổ thơ với ba cặp lục bát tương xứng. Bằng hình thức tập Kiều nhuần nhuyễn, sáng tạo, ngôn ngữ trong sáng, giản dị, giàu hình ảnh, những so sánh bất ngờ... ấy đã diễn tả thật thành công một tấm lòng của một người con cúi mình trước đại thi hào vĩ đại của dân tộc Nguyễn Du, một thi hào kỳ tài ấy đã chắp bút nên Truyện Kiều, một công trình đồ sộ và có giá trị thật lớn lao, góp phần tăng giá trị đạo đức, nhận thức vào kho tàng văn học Việt Nam. Cảm khái và ngưỡng mộ trước tài năng ấy kết hợp với một tấm lòng khát vọng tìm về quá khứ xưa, Tố Hữu đã viết:

"Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu"

Tố Hữu đã ca ngợi giá trị nhân bản của tiếng thơ Nguyễn Du, một tiếng thơ vang động đến hồn thiêng sông núi, đến tạo vật muôn loài. Bằng cách sử dụng lối so sánh, ẩn dụ tài tình, nhà thơ đã nâng cao tầm vóc, giá trị của thơ ca Nguyễn Du, ông đã ví tiếng thơ ấy là "non nước" vọng về từ ngàn năm trước, của thời gian xa xưa, của quá khứ. Tiếng thơ ấy vọng về đây trong niềm tự hào, hân hoan, đón nhận của tấm lòng hậu thế muốn đền đáp tấm lòng cha ông xưa. Nỗi niềm ấy, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng vọng. Hai câu thơ không những khái quát được tầm vóc giá trị to lớn của tài năng Nguyễn Du mà còn thể hiện sâu sắc tình cảm cao đẹp của Tố Hữu - thế hệ hôm nay ngưỡng vọng về quá khứ của cha ông.

Lời thơ ấy, tiếng lòng hân hoan Tố Hữu lại tiếp tục rộng mở, vươn tới những giá trị vĩnh hằng khác:

"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày"

"Nghìn năm" là khoảng thời gian của hồi tưởng, của ngưỡng vọng, của khát vọng mãnh liệt, của tấc lòng tri kỷ biết ơn của thế hệ hôm nay. Đó còn là khoảng thời gian của thế hệ hôm nay trả lời cho nỗi đau lịch sử của cha ông trong quá khứ. Một lần nữa, cảm hứng ngợi ca chắp bút cho Tố Hữu cất tiếng lòng tự hào trong khúc hát tràn đầy hân hoan, hứng khởi, trong sự ngưỡng vọng trước một thiên tài. Tiếng thơ của Nguyễn Du được ví như "tiếng mẹ", mà "tiếng mẹ" thì gần gũi, thân thiết quá. Đó là lời ru nhẹ nhàng, ân tình, chan chứa tình yêu thương và trong ấy gửi gắm bao mơ ước, thật cao đẹp. Và vì thế tiếng thơ của Nguyễn Du là tiếng ru của mẹ, ân tình, ngọt ngào thổi vào lòng bao thế hệ, có sức mạnh thật lớn lao. Tình cảm ấy, khúc hát ru ân tình ấy là lời nhắc nhở, thủ thỉ cho con thế hệ hôm nay vững bước trưởng thành.

Tiếng lòng đồng vọng của cõi xưa nhập cùng thế hệ hôm nay để con lại vang lên lời ca tự hào:

"Hỡi người xưa của ta nay
Khúc vui xin lại so dây cùng Người!"

Trên trục kết cấu "xưa nay", "Người" cùng vang lên tiếng lòng khát khao tìm kiếm tri ân. "Con" sẽ cùng "Người" hát tiếp khúc tráng ca ấy chào đón cách mạng.

Chữ "cũng" đã thể hiện đầy đủ ước vọng của chúng con và Người. Tình cảm ấy, nghĩa cử ấy thật đáng tự hào và trân trọng.

Sáu câu thơ, ba cặp lục bát song hành ấy là tình cảm, tiếng lòng của chúng em thế hệ hôm nay đáp lời quá khứ.

Đó cũng là lời hứa chân thành nhất của thế hệ hôm nay cùng ngân vang theo nhịp đập quá khứ.

Bằng lối tập Kiều nhuần nhuyễn, sử dụng hình ảnh có tính gợi hình, giọng điệu ân tình, ngọt ngào, đậm chất dân tộc, khổ thơ đã thể hiện trọn vẹn phong cách thơ Tố Hữu. Khuynh hướng thơ trữ tình chính trị, một giọng điệu tâm tình ngọt ngào và đậm đà tính dân tộc. Khổ thơ khép lại nhưng lại mở ra một chân trời mới, tương lai mới trong hành trình chống Mỹ hôm nay.

"Sông Lam nước chảy bên đồi
Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân".

HẾT
HƠI DÀI 1 TÍ NHƯNG RẤT HAY.MỌI NGƯỜI CHỊU KHÓ ĐỌC RỒI HỌC TẬP NKA.TỚ CŨNG PHẢI HỌC TẬP THEO ĐÂY

I_l0ve_you_4ever
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 219
Join date : 27/09/2011
Age : 27
Đến từ : thái nguyên

Về Đầu Trang Go down

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA Empty Re: ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Bài gửi by I_l0ve_you_4ever 19/11/2011, 23:07

CẢM NHẬN VỀ HÌNH TƯỢNG CHÍ PHÈO

Chí Phèo - một tấn bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Bản chất của Chí Phèo là một con người lương thiện, luôn khao khát được sống như một người bình thường, muốn sống lương thiện nhưng lại bị xã hội lúc bấy giờ biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bi kịch này bắt đầu diễn ra trong nội tâm Chí Phèo khi hắn gặp Thị Nở với "bát cháo hành". Chính tình yêu Chí Phèo - Thị Nở đã đánh thức con người lương thiện của hắn. Hay nói cách khác chính sự xuất hiện của Thị đã cứu Chí Phèo thoát khỏi tấn bi kịch đó dù chỉ là trong phút chốc.

Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao. Trên cơ sở người thật, việc thật ở quê mình, tác giả đã hư cấu, sang tạo nên bức tranh hiện thực sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối, ngột ngạt cùng bao nhiêu bi kịch đau đớn, kinh hoàng... Dù có được đặt tên là Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo thì tác phẩm ấy vẫn được nhận ra bởi giá trị hiện thực và nhân đạo vô cùng to lớn của nó.

Nhân vật chính Chí Phèo là đại diện điển hình cho bi kịch của những người nôn dân bị tha hoá trong xã hội cũ. Nhưng những cảnh ngộ cùng quẫn, bi đát trong caí xã hội ấy đã không thể làm cho những người dân quê khốn khổ như Chí Phèo mất đi niềm khao khát được sống tốt đẹp và lương thiện. Trong con người họ lúc nào cũng luôn âm ỉ một sự phản khánh vô cùng mạnh mẻ.

Một chút về Chí Phèo, ta có thể thấy hắn là một đưa con rơi, ra đời trong cái lò gạch cũ, lớn lên bằng tình thương bố thí của những người nghèo. Khi lớn lên làm canh điền trong nhà Bá Kiến lại bị vợ ba Bá Kiến gọi lên "bóp chân"; Bá Kiến sanh long ghen tuông nên đưa đi tù. Thời gian sau, Chí Phèo lại trở thành "con quỷ dữ của làng "Vũ Đại" tác oai tác quái dân lành. Chí Phèo chìm trong cơn say, chỉ có một lần hắn tỉnh thật sự vào một buối sáng (đã được Thị Nở đánh thức). Nhưng rồi tình yêu bị đổ vỡ. Bế tắc, đi tìm lương thiện, hắn giết Bá Kiến rồi tự giết mình. Chí Phèo chết nhưng chưa hết truyện. Thị Nở "nhìn nhanh xuống bụng" và "và thoáng hiện ra cái lò gạch cũ". Một "Chí Phèo con" sắp ra đời. Cách sắp xếp khá tinh tế độc đáo. Cứ mỗi lần Chí Phèo ngoi lên thì lại bị cuộc đời này đè xuống. Khiến người đọc phải theo dõi liên tục không thể rời được.

Hay cho Nam Cao khi xây dựng được một chiều diễn biến tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ta có thể nhận thấy dễ dàng nhất ở đoạn Chí Phèo mở mắt thì trời đã sang… Một lần hắn tỉnh. Những thanh sắc cuộc sống "mặt trời chắc đã cao", "tiếng chim ríu rít" lại hiện lên mặc dù hắn đang ở trong cái lều ẩm thấp. Lần đầu tiên hắn tỉnh, và cũng là lần đầu tiên hắn có những rung động với trước cuộc sống. Hắn nghe "tiếng cười nói của những người đi chợ", "nghe tiếng thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá".

- Rồi những kỉ niệm xưa lại hiện về. Có lần hắn ước ao "một gia đình nho nhỏ. Chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải…mặc dù chỉ là mơ hồ.

- Từ đấy hắn cảm thấy buồn cô độc.

+ Cái diễn biến tâm lí của một con quỷ đang hướng về lương thiện.

Trong truyện ngắn Chí Phèo , quá trình bị cự tuyệt quyền làm người thật ra đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị tha hoá. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm đã thể hiện điều đó.Chí cất lên tiếng chửi trời, chửi đời, chửi làng xóm, tất cả mọi người - những kẻ không chửi lại, cả những kẻ đã đẻ ra hắn. Tiếng chửi ấy như là tiếng hát để được giải thoát, vu vơ, ngân ngơ của một thằng say. Vậy mà nó thật trừu tượng mà cụ thể, xa đến gần, có thứ tự và vô cùng văn vẻ. Tiếng chửi là khao khát được giao tiếp với đời dù là hình thức giao tiếp hạ đẳng nhất .nhưng nó lại không được ai đáp lại cả. Nhưng phải từ khi gặp Thị Nở, tức là từ khi Chí Phèo thức tỉnh, bi kịch mới thật sự bắt đầu. CP ngạc nhiên ,xúc động khi TN bê bát cháo hành sang cho CP.Hương vị cháo hạnh là hương vị của tình yêu chân thành, hạnh phúc giản dị mà to lớn. Rồi liên tiếp, CP đều cảm thấy hơi cháo hành thoang thoảng trong mũi. Lần đầu là khi Thị từ chối, hắn nghĩ ngợi một tí, rồi hình như hiểu, hiểu mình đã có quá nhiều tội lỗi, ngẩn người ra để tự hổi làm sao để trở lại làm một con người bình thường?! Lần thứ hai là lần quyết định hành động, hắn uống thật nhiều rượu nhưng càng uống lại càng tình, tình ra lại buồn, lúc đó hơi cháo hành lại thoang thoảng xuất hiện, đó là ý nghĩa biểu trưng, hắn lại nghĩ đến Thị, phân vân giữa việc làm người và một con quỹ, đó chính là ước mơ lương thiện, làm một con người như mọi người! Rồi đến lúc gặp mặt Bá Kiên, những hành động đó mới là tư thế làm người cuối cùng trước khi chết của CP.

Một CP tỉnh đã giết chết 1 CP say . CP bằng xương , bằng thịt đã chết nhưng còn lại trong lọng người đọc là CP đòi quyền sống , đang dõng dạc đòi làm người lương thiện. Như vậy, khi ý thức nhân phẩm đã trở về , CP không bằng lòng sống như trước nữa . Và CP chết trong bi kịck đau đớn , chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống . Đây khong thể là hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống. Mang đậm giá trị tố cáo rất cao, lên án giai cấp pk thống trị tha hoá, những bị kịch như vậy sẽ còn tiếp diễn.

I_l0ve_you_4ever
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 219
Join date : 27/09/2011
Age : 27
Đến từ : thái nguyên

Về Đầu Trang Go down

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA Empty Re: ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Bài gửi by I_l0ve_you_4ever 19/11/2011, 23:09

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT CHÍ PHÈO

Nam Cao - một trong những cây bút xuất sác nhất của dòng văn học hiện thực,phê phán trước Cm tháng tám .ông nổi tiếng với các sáng tác về đề tài người nông dân và người trí thức tiểu tư sản. tiêu biểu cho đề tài về người nông dân và trí thức tiểu tư sản.Tiêu biểu cho đề tài về người nông dân là tác phẩm "Chí Phèo " với nhân vật tên Chí .Một con người bất hạnh nàm trong vòng xoáy bi kịch cự tuyệt quyền làm người. Khác hẳn với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời,trong tác phẩm "Chí Phèo",Nam Cao không đi sâu vào miêu tả quá trình đói cơm rách áo, bần cùng khốn khổ...của người nông dân ,mặc dù trong thực tế ,đó cũng là hiện thực phổ biến. Nam CAo trăn trở, băn khoăn sy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc ,bức xúc hơn cả đói rét bần cùng,đó là hiện thực về sự tha hóa, một mối đe dọa thảm khốc trong xã hội đương thời,về nhân phẩm bị vùi dập,chà đạp bởi một bộ máy thống trị tạn bạo .Vấn đề nhâm phẩm,vấn đề quyền con người được đặt ra,chi phối cảm hứng sáng tạo trong nhiều sáng tạo của Nam Cao,trong đó Chí Phèo là tác phẩm thể hiện trực tiếp,tập trung mãnh liệt hơn cả . Mở đầu tác phầm là tiếng chửi ngoa ngoắt , thách thức của Chí Phèo đang ngật ngưỡng trong cơn say "Hắn vừa đi vừa chửi.Bao giờ cũng thế, cứ rươu song là hắn chửi .Bắt đầu hắn chửi trời .Có hề gì trời nào của riêng nhà nào?Rồi hắn chửi đời.Thế cũng chẳng sao :đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai .Tức mình ,hằn chửi tất cả làng Vũ Đại .Nhưng cả làng Vũ Đại , ai cũng tự nhủ "Chắc nó trừ mình ra !"Tức thật ! ờ thế này thì tức thật Tức chết đi được mất ! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn .Nhưng cũng không ai ra điều .Mẹ kiếp ! Thế có phí rươu không? Thế có khổ hắn không? Không biết đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn cho hắn khổ đến nông nỗi này .Đẻ ra cái thằng Chí Phèo "đây là mội tiếng chửi của một tên say rượu, một tiếng chửi vô thức .Nhưng nhiều khi vô thức ,con người lại thể hiện chính mình nhiều hơn khi thức .Qua tiếng chửi của Chí Phèo ta cảm thấy như đang đối diện với một người - vật quái gở và đơn độc ở tận cùng của sự đau khổ của mình.Và cũng qua lời chửi của Chí Phèo ta cảm thấy được 3 thái độ khác nhau,đó là thái độ hằn học thù địch của Chí Phèo , thái độ khinh miệt dửng dưng của người đời đối với Chí , thái độ phẫn uất của tác giả thể hiện qua giọng văn vừa xót xa vừa tàn nhẫn .Trước kia Chí rất lương thiện . Chỉ sau khi ở tù về,hắn mới hóa thành một con người khác hẳn ,bị tước mất cả nhân tính với "cái đầu trọc lốc ,cái răng cạo trắng hớn , cái mặt thì đen và cơng cơng , hai mắt gườm gườm trông gớm chết " sau khi ở tù về hắn đã trở thành con quỷ dũ của lành Vũ Đại mà không tự biết. Cuộc đời hắn không có ngày tháng bởi những cơn say triền miên ... Hắn ăn và ngủ trong cơn say , đập đạu rạch mặt chửi bới trong lúc say, để rồi say nữa , say vô tận ... Trong tác phẩm "Chí Phèo " Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo không phải là một ngoại lệ. Cùng với hắn còn có Binh Chức ,Năm THọ .Đó là kết quả tất yếu cho một logic, một khi đã có Bá Kiến ,Lí Cương,Đội Tảo ...thì ắt sẽ có Chí Phèo , Binh Chức , Năm Thọ .Đó không phải chỉ là sản phẩm của sự thống trị mà thậm trí còn là phương tiện tối cần thiết để thống trị . Như thế xã hội không chỉ đẻ ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi Chí Phèo, biến những người như Chí Phèo thành công cụ thống trị của chúng . Những người dân lương thiện ấy bị biến thành công cụ , phương tiện thống trị cho kẻ thù mà không tự biết . Nam Cao đã chỉ ra hậu quả của sự soi sáng vào quá trình miêu tả một cảm hứng nhân văn sâu sắc . Nhưng điều đặc sắc ở tác giả là ngay trong khi miêu tả nhân vật bị tha hóa đến tận cùng , ông vẫn phát hiện ra chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn có ,chỉ cần một chút tình thương khẽ chạm vào là có thể sống dậy mãnh liệt , tha thiết . Vì vậy ,sự xuất hiện của Thị Nở - con người dương như hội tụ đủ tất cả yếu tố bất lợi cho một người phụ nữ , có một ý nghĩa thật đặt sắc. Con Người xấu " ma chê quỷ hờn " ấy , kì diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất dọi vào chốn tăm tối của Chí Phèo , thức tỉnh, gợi dậy bản tính người bên trong Chí Phèo , thắp sáng một trái tim đã bị ngủ mê qua bao ngày tháng bị vùi dập và hắt hủi . Sau khi gặp Thị Nở, Chí Phèo được tập trung miêu tả qua tâm trạng bi kịch .Đó là một buổi sáng thật trong lành , bao nhiêu âm thanh êm đềm, bình dị ,thân thiết dã dội vào lòng thức tỉnh của con người trong Chí Phèo . Tất cả những hình ảnh đấy , âm thanh đấy gợi nhác những giấc mơ xa xôi một thời đã làm cho Chí Phèo cảm thấy cô độc , nhất là sự cô độc khi tuổi già , cái này còn sợ hơn đói rét bệnh tật . Như vậy tình yêu thương mộc mạc của Thị Nở đã đánh thức được cái bản chất lương thiện của Chí Phèo ,sau bao ngày chìm đắm trong cơn say , sau bao ngày hung dữ , hoang dại như một con thú mang hình người. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành tới , nhìn bát cháo hành bốc khói mà lòng Chí xao xuyến bâng khuâng " Hắn cảm thấy long thành trẻ con , hắn muốn được làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ ...Ôi sao mà hắn hiền ! Hắn thèm lương thiện -Hắn khao khát được làm hòa với mọi người " Tù một con quỷ dữ , nhò Thị Nở, đúng hơn là nhờ tình thưong của Thị Nở , Chí thực sự chở lại làm con người , với tất cả nhưng năng lực vốn có của con người là yêu thương, cảm xúc , ao ước . Hóa ra chỉ cần một chút tình thương , dù là tình thương của một con người dở hơi ,bệnh hoạn , thô kẹch , xấu xí ... cũng đủ làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí .Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu đến mức nào ! Bằng chi tiết này Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ , nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông , chia sẻ nhưng giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo . Nhưng bi kịch và đau đớn thay , ngay cả Thị Nở cũng không thế gắn bó với Chí Phèo .Và thật khắc nhiệt , khi bản tính nơi Chí trỗi dậy , Chí hiểu rằng mình không còn trở về với lương thiện được nữa . Chí uống rượu và càng uống lại càng tỉnh và hắn thấm thía nỗi đau thân phận con người , càng thấm thía nỗi đau đã cướp đi cái quyền làm người của hắn , cướp đi cả bộ mặt lẫn tâm hồn người. Vậy nên ,thay vì đến nhà Thị Nở ,Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến vì lòng căm thù bấy lâu nay cháy bùng lên làm cho Chí Phèo vô cùng tỉnh táo .Hành động này quá bất ngò đối với Bá Kiến , với cả làng Vũ Đại. Ai cũng coi đây là vụ giết người dữ dội của con quỷ dữ Chí Phèo .Nhưng hôm nay , tâm hồn người trở về , mọi người cũng không nhận ra . Nam Cao miêu tả bi kịch cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo hết sức tinh tế và sâu sắc như là một quá trình tự vận động của tính cách .Tù lương thiện biến thành lưu manh . từ một kẻ đâm thuê chém mướn bỗng thèm lương thiện , bị cự tuyệt quyền làm người thì trả thù kẻ làm hại đời mình rồi tự sát. Nam Cao vừa vạch trần cái xã hội thối nát , độc ác vừa lên tiếng đấu tranh cho những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đương tha hóa , lưu manh hóa . Truyện Chí Phèo là một truyện ngắn độc đáo , thấm nhuần tinh thần nhân đạo . Một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say . Chí chết nhưng đọng lại trong ta hình ảnh Chí đòi quyền sống , quyền được lương thiện , và Chí chết trong bi kịch của sự đau đớn. Đây không phải hành động lưu manh mà là sự vùng lên tuyệt vọng của người nông dân khi thức tỉnh cuộc sống.

I_l0ve_you_4ever
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 219
Join date : 27/09/2011
Age : 27
Đến từ : thái nguyên

Về Đầu Trang Go down

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA Empty Re: ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Bài gửi by I_l0ve_you_4ever 26/11/2011, 21:48

PHÂN TÍCH HÌNH TƯỢNG SÓNG TRONG BÀI THƠ SÓNG CỦA XUÂN QUỲNH

Đề bài: Anh (chị) cảm nhận gì về vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua hình tượng này?

"Sóng" được in trong tập "Hoa dọc chiến hào", xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hòa nhập, lúc sự phân thân của "em" - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức"

"Còn thức" tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

"Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi"

(Biển - Xuân Diệu)

Cũng như "em" muốn được gần bên anh, được hòa nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng nhỏ

Con nào cũng tới bờ

Dù muôn vời cách trở"

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thủy chung là đặc tính của tình yêu:

"Dẫu xuôi về phương Bắc...

Hướng về anh một phương".

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thủy chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

"Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ"

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ "sóng". Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng "sóng" Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hòa nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung.

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước", khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

"Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được"

Đọc xong bài thơ Sóng ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thủy chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Cô Huỳnh Thị Thanh Xuân giới thiệu

Nguồn thptnan.com

"Sóng" Còn Mãi Nổi Sóng

Cứ mỗi lần đọc bài thơ Sóng, tôi lại nhớ đến nhà thơ Xuân Quỳnh với cái cảm giác mình đang đứng trước biển. Biển mênh mông vô tận, ào ạt, đắm say, "dữ dội và dịu êm" như tâm hồn nồng nhiệt khát khao tình yêu cháy bỏng của thi sĩ. Đoá quỳnh mùa xuân mê đắm và ngạt ngào hương sắc ấy đã toả sáng hết mình, để rồi một ngày thu đẹp giữa mùa trăng, chị vĩnh viễn đi vào cõi tình yêu bất tử. Nhưng những vần thơ của chị sẽ mãi mãi còn nổi sóng.

Với bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh viết năm 1967 in trong tập Hoa dọc chiến hào (1968) được nhều người tiếp cận từ các góc độ khác nhau: có người chú ý đến hình tượng song đôi sóng và em, có người lại cảm nhận âm điệu dạt dào như sóng vang ngân trong suốt bài thơ. Và có người lại tìm hiểu lời tự bạch "và lời tự hát" của một trái tim phụ nữ đắm say, khao khát tình yêu. Nhưng thơ Xuân Quỳnh hay không chỉ nhờ âm điệu, sự cấu tứ hình tượng, hình ảnh và ngôn ngữ thơ đặc sắc. Cái độc đáo trong thơ chị là sự giản dị chân thành, nỗi cháy bỏng đam mê, thẳm sâu.

Bài thơ có nhan đề Sóng, rất ngắn gọn, giản dị, nhưng hàm ẩn, gợi mở. Người đọc có thể tuỳ theo lứa tuổi, sự từng trải, óc tưởng tượng của mình để cảm hiêể chủ đề bài thơ ẩn chứa sau cái tên giản dị ấy. Sóng có thể là sóng biển, sóng lòng, sóng tình hay khát vọng dâng trào… Sóng với tính chất mãnh liệt trào dâng và âm vang trẻ trung muôn đời của nó, từ xưa đến nay luôn có mặt trong thi ca nhân loại.

Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn, vốn vô cùng thân thiết với những ai yêu thơ Xuân Quỳnh. Vẫn cái nhịp thơ vừa sôi nổi vừa đằm thắm ấy của Thuyền và biển, Thơ tình cuối mùa thu… mà tiết tấu luôn luôn biến hoá theo sự phong phú của cảm xúc. Ngay từ khổ thơ đâầ, hình tượng sóng đã xuất hiện để rồi từ đó chiếm lĩnh toàn bộ bài thơ. Và cũng từ đấy âm điệu thơ xôn xao, ngân rung theo nhịp sóng. Nhà thơ đã dùng một loạt tính từ và thủ pháp đối với song hành để gieo vào lòng độc giả ấn tượng khó quên về tính chất của sóng:

"Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ".

Đây là một nhật xét xác đáng, hiểu theo cả hai nghĩa tả thực và tượng trưng. Ai đã từng đến với biển hẳn không thể không suy ngẫm về trạng thái ngược kì lạ của nó: Biển trong giông bão, nhưng con sóng gầm gào sủi tung bọt trắng nổi bật trên nền trời và mặt nước xám xịt… Còn biển lúc đẹp trời, sóng nhấp nhô xanh, dịu dàng êm ả dẹt ren mềm vào chân cát. Hai đối cực ấy khiến cho ai đứng trước biển cũng phải ngỡ ngàng và băn khoăn liên tưởng tới tâm trạng con người, tới chính mình. Xuân Quỳnh chắc đã từng có những phút giây như vậy. Khí chất của Sóng mà chị miêu tả gợi độc giả liên tưởng đến tâm hồn người phụ nữ, đến những con sóng lòng dào dạt ở người phụ nữ đang đắm say yêu.

Cũng ngay ở khổ thơ này, có một câu thơ thường được hiểu theo hai nghĩa: "Sông" hoặc "Sóng" không hiểu nổi bình… Nhưng dù là "sông" hay "sóng" thì đều chỉ chung cái ước vọng khao khát kiếm tìm, vươn tới sự lớn lao, khoáng đạt, tự khám phá và khẳng định mình: "Sóng tìm ra tận bể".

Nhưng nhà thơ miêu tả sóng có phải chỉ để nói về sóng, về biển cả thôi không ?

"Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ…"

Ố! Hoá ra không! Sóng ở đây đươc dùng như một hình ảnh ẩn dụ hay một về so sánh liên tưởng để diễn tả sự "dữ dội và dịu êm" của lòng người, của khát vọng tình yêu tuổi trẻ.

Biển vẫn ngàn năm cồnc ào, xáo động, dào dạt, không ngưng nghỉ, không đổi thay, vẫn trẻ trung và bất diệt thế. Ngực biển vẫn luôn rung nhịp đập phập phồng thuỷ triều. Điều này khiến nhà thơ không khỏi suy tư đến khát vọng tình yêu, tuổi trẻ của con người. Đời người là hữu hạn, nhưng tình yêu của con người thì mãi mãi trường tồn, bất diệt, trẻ trung, là mạch nguồn duy trì sự sống hết thế hệ này sang thế hệ khác, muôn đời như muôn nghìn lớp sóng kế tiếp nhau. Khát vọng tình yêu vượt qua thời gian, vượt qua khôn gian, là nhịp sóng dào dạt, bồi hồi của vô hồi vô hạn ngực trẻ. Lời thơ như một lời tâm sự giản dị mà thâm trầm, và nỗi niềm tác giả được bộc lộ. Đứng trước biển, nghĩ về mình, chị sẽ thể hiện điều chính yếu là khát vọng tình yêu của con người, chị phải mở lòng mình giữa biển trời bao la. Đến đây, có lẽ hình tượng sóng không đủ để nhá thơ giãi bày khát vọng của mình, chị muốn bộc bạch trực tiếp với nguời con gái – em – nhân vật trữ tình thứ hai xuất hiện:

"Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?"

Những lời thơ bình dị, chân thật như một lời tâm sự. Bao điều "em nghĩ", "em nghĩ" ấy cứ dăng hàng kéo về như những đợt sóng nối tiếp nhau và thể thơ năm chữ dường như không ngắt nhịp đã chuyển tải thật đắc địa nỗi lòng ngày càng trào dâng ấy:

"Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau".

Vẫn câu hỏi muôn đời của đôi lứa yêu nhau. Những câu hỏi dường như không có lời đáp. Điều bí ẩn khiến con người ta luôn khao khát lí giải, kiếm tìm. Nhưng đó cũng là điều giản dị của tự nhiên - chỉ tự nhiên trả lời được. Nó khiến tự nhiên linh thiêng, tình yêu linh thiêng. Có bao giờ người ta hết ngạc nhiên trước sự thẳm sâu của vụ trụ, của lòng mình ? Có bao giờ hết những bâng khuâng, trăn trở, khao khát kiếm tìm ở những trái tim yêu!

Cũng bắt đầu từ hai khổ thơ 3 – 4 này, hình tượng sóng và em luôn luôn sóng đôi nhau, tuy hai mà một, lúc tan trong nhau, lúc nâng nhau lên như những con sóng gối nhau vỗ bờ không ngưng nghỉ, thể hiện khát vọng tình yêu cháy bỏng. Và bởi vậy, lời thơ ngày càng sôi nổi, âm điệu dập dồn. Những con sóng ngày càng trào dâng như tình yêu của em, thiết tha, mãnh liệt:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được…

Nhịp sóng vang động cả bề sâu, về xa, bao trùm cả không gian, thời gian. Sóng không ngủ dù trong lòng sâu hay trên mặt nước, những con sóng dữ dội hay dịu êm, bộc lộ hay đằm sâu, nhưng đều là biển tràn dâng nỗi nhớ. Đọc những vần thơ ấy, không thể không nhớ đến Biển của Xuân Diệu, với làn sóng tình yêu biếc xanh - những nụ hôn nồng nàn của đất trời muôn đời dành cho bờ bãi – như tình yêu đắm say, mãnh liệt khôn cùng của tuổi trẻ. Và biết bao vần thơ khác nữa về nỗi biển nhớ dào dạt, cuồng si…

Chỉ bốn câu thơ mà Xuân Quỳnh đã để lại cho điệp từ "con sóng" trở đi trở lại, vang ngân như một điệp khúc, kết hợp cùng thủ pháp đối khiến lời thơ ngập tràn tiếng sóng, lắng sâu vào lòng người đọc.

Ngẫm về sóng để nghĩ, hiểu thêm mình, mượn sóng để nói lời tình yêu. Bởi vật nỗi nhớ của sóng cũng chính là nỗi nhớ của em, nỗi nhớ được nhân đôi càng cồn cào vời vợi:

"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức".

Không chỉ nói "em nhớ anh" mà sâu hơn là "lòng em nhớ đến anh". Tiếng sóng biển dạt dào, khắc khoải khôn nguôi ấy cũng chính là tiếng sóng của lòng em đó! Sóng không ngủ ư ? Lòng em cũng luôn luôn thao thức, trở trăn nỗi nhớ. Nỗi nhớ ăn sâu vào tiềm thức, "xáo trộn cả thực và mơ". Xưa nay, có tình yêu nào không được đo bằng nỗi nhớ?

"Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa như ngồi đống than"

(Ca Dao)

Cha ông ta xưa đã diễn tả thật hay về nỗi nhớ tương tư của những trái tim yêu. Từ nỗi nhớ bồn chồn khó lí giải đến nỗi nhớ có hình có khối:

"Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh,

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! Em ơi!"

(Tương tư chiều – Xuân Diệu)

Thơ ca đã làm ngân rung những sợi tơ lòng đang đắm say yêu. Xuân Quỳnh đã góp thêm vào bản nhạc tương tư những sóng đàn thăm thẳm, dịu em mà nồng nàn, dữ dội.

Những suy tưởng trước son sóng nhớ bờ ấy khiến người co gái (em) đằm sâu hơn trong nỗi nhớ thuỷ chung của chính mình:

"Dẫu xuôi về phương bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương".

Không còn em và sóng, chỉ còn em và anh với dấu nối tình yêu. Chỉ có con sóng lòng ngầm ẩn, không có con sóng thực. "Chỉ còn anh và em. Cùng tình yêu ở lại" (Xuân Quỳnh). Ta lại gặp thủ pháp đối ở đây và những lời bộc bạch chân thành, giản dị mà đinh ninh như một lời thề chung thuỷ. Lời thề ấy càng được khắc sâu bằng cách nói trái với lệ thường (xuôi Nam, ngược Bắc):

"Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam"

Dẫu có đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy biến động, dù đất trời có đảo lộn dữ dội đến đâu, em vẫn hướng về phương anh, chẳng đổi thay.

Em luôn hướng về anh dù ở đâu, đi đâu, về đâu; như trăm ngàn con sóng kia luôn hướng về bờ cát dù ở muôn trùng khơi xa vời, cách trở. Cũng như hành trình đến bến bờ hạnh phúc, dù khó khăn gian khổ đến đâu thì với tình yêu thuỷ chung, nhất định con thuyền tình yêu sẽ vượt qua mọi thác ghềnh, cập bến bờ hạnh phúc! Lời thơ ở đây vẫn luôn chảy dạt dào theo mạch suy tưởng, vẫn trào dâng theo nhịp sóng:

"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng nhỏ

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở".

Dường như những con sóng ấy, chở cả niềm tin, niềm hy vọng lớn lao vào tình yêu, hạnh phúc tràn đầy của trái tim ngươờ phụ nữ. Trái tim ấy đang đắm say yêu, đang chất chứa một khát vọng khôn cùng về tình yêu bất diệt.

Sang khổ thơ thứ 8, nhịp hthơ chợt chùng lại, thấm đẫm suy tư:

"Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa…"

Nỗi ám ảnh thời gian thường bảng lảng trong thơ Xuân Quỳnh ngay cả khi chị nói về tình yêu, hạnh phúc lại in bóng xuống những dòng thơ này. Có biết bao nỗi niềm ngẫm ngợi sâu xa về đời người, thời gian, không gian, khát vọng tình yêu, khát vọng sống ở bốn câu thơ thấm đậm nỗi buồn ấy.

Đời người là hạn hẹp, thời gian là vĩnh hằng, không gian vũ trụ thì vô tận… Còn con người, để đạt được sự vĩnh cửu hoàn thiện ấy chỉ có tình yêu, bởi chỉ có tình yêu là muôn đời trẻ trung, bất tử. Như sóng biển cồn cào không bao giờ ngưng nghỉ, nỗi khát vọng tình yêu mãi mãi bồi hồi trong *****g ngực thanh xuân. Xuân Quỳnh đã hơn một lần nói về điều này trong thơ mình. Ở Thơ tình cuối mùa thu chị viết:

"Thời gian như là gió

Mùa đi theo tháng năm

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tình yêu ở lại"

Chị thường đặt tình yêu giữa không gian bao la (biển khơi, đất trời, mây gió…) và thời gian bất tận (mùa thu đi, ký ức, "thời gian trắng", "thời gian ơi sao không đổi sắc màu"…) để đi đến tận cùng xứ sở, đến tận cùng đau đớn khổ đau của cuộc đời chị đã nếm trải. Cho nên, thật dễ hiểu cái khát vọng ngày càng dâng lên mãnh liệt khôn cùng trong trái tim người nữ thi sĩ của tình yêu và hạnh phúc đời thường:

"Làm sao đựơc tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ".

Trái tim ấy không hề nhỏ nhoi, cô đơn trước sự vĩnh cửu mà rộng lớn, khao khát sẻ chia và hoà nhập vào cõi vĩnh hằng, vào mọi cuộc đời. Trái tim nồng nhiệt ấy ẩn chứa một khát vọng lớn lao được sống mãi trong tình yêu, bất tử với tình yêu.

Bài thơ đã khép lại mà những con sóng dạt dào, khắc khoải vẫn vỗ nhịp trong lòng độc giả, vẫn cất tiếng ngân vang một tâm hồn, một tình yêu bất diệt.

Sóng sẽ mãi mãi còn nổi sóng!

I_l0ve_you_4ever
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 219
Join date : 27/09/2011
Age : 27
Đến từ : thái nguyên

Về Đầu Trang Go down

ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA Empty Re: ĐỂ TỚ BÓC TEM BOX HỌC TẬP NÀY BẰNG 1 BÀI VĂN RẤT HAY.AI CÓ NHỮNG BÀI VĂN HAY,NHỮNG PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MỚI THÌ CHIA SẺ NHA

Bài gửi by Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết